Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?

the-nao-la-thuc-hien-cong-viec-khong-co-uy-quyen

Trong lĩnh vực dân sự, các quan hệ pháp luật được hình thành dựa trên sự tự nguyện, bình đẳng giữa các bên. Một trong những cách thức hình thành quan hệ pháp luật dân sự là thông qua hành vi pháp lý đơn phương – khi một cá nhân, tổ chức tự mình thể hiện ý chí pháp lý mà không cần sự đồng thuận từ phía người khác. Hành vi này có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.

Trong thực tiễn đời sống, có không ít trường hợp một người chủ động thực hiện công việc vì lợi ích của người khác, dù không có nghĩa vụ pháp lý và cũng không có sự ủy quyền hợp pháp từ người được lợi. Đây chính là tình huống được pháp luật ghi nhận với thuật ngữ “thực hiện công việc không có ủy quyền”.

Vậy, “thực hiện công việc không có ủy quyền” là gì? Cơ sở pháp lý nào điều chỉnh hành vi này? Khi xảy ra tranh chấp, hệ quả pháp lý được giải quyết ra sao? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn làm rõ các vấn đề này dưới góc độ pháp lý và thực tiễn áp dụng, có sự liên hệ tư vấn thực tế từ Công ty Luật Dương Gia – một đơn vị luật uy tín, chuyên sâu trong lĩnh vực dân sự.

1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?

Căn cứ Điều 574 BLDS 2015 quy định về thực hiện công việc không có ủy quyền:

“Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối”

Ví dụ: Thu dọn lúa, rơm của nhà hàng xóm khi hàng xóm vắng nhà cơn mưa đang kéo đến hoặc chủ nhà đi vắng.

Như vậy ta có thể thấy rằng theo quy định của BLDS 2015 thì việc thực hiện công việc không có ủy quyền là việc mà một người không có nghĩa vụ phải thực hiện một công việc nào đó, nhưng vẫn tự nguyện thực hiện công việc đó một cách tự nguyện, vì lợi ích của người có công việc được thực hiện chứ không phải vì được ủy quyền hay vì hợp đồng được kí kết nào cả.

2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?

Tại khoản 3 Điều 275 có quy định “Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là thực hiện công việc không có ủy quyền”

Từ điều 574 đến điều 578 BLDS 2015 thì người có công việc được thực hiện và người thực hiện công việc không ủy quyền đều có nghĩa vụ đối với bên còn lại. Thông thường những trường hợp thực hiện công việc không có ủy quyền trong thực tế đều tạo nên sự ràng buộc pháp lý giữa người thực hiện công việc và người có công việc được thực hiện nhằm để nâng cao tinh thần trách nhiệm của cả 2 bên.

Khi 1 bên thực hiện công việc không được ủy quyền thì phải thực hiện công việc như công việc của mình, nếu biết hoặc đoán biết được ý định của người có công việc thì phải thực hiện công việc phù hợp với ý định đó. Người có công việc được thực hiện có nghĩa vụ phải tiếp nhận công việc khi người thực hiện công việc không ủy quyền bàn giao, thanh toán chi phí hợp lý mà người thực hiện công việc không có ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc, kể cả trong trường hợp công việc không đạt được kết quả theo ý muốn của mình, hoặc người thực hiện công việc không có ủy quyền phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường nếu như gây thiệt hại đối với công việc đang làm. Vì vậy, có thể nói thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ.

3. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” theo BLDS 2015?

3.1. Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc

Căn cứ theo quy định tại điều 574 BLDS 2015, không có căn cứ pháp luật nào xác định rằng người thực hiện công việc phải có nghĩa vụ thực hiện công việc đó. Về công việc được thực hiện và công việc này không phải nghĩa vụ pháp lý có tính chất bắt buộc. Thực tế cho thấy, không có bất cứ căn cứ nào đưa ra để khẳng định rằng người thực hiện công việc có nghĩa vụ phải thực hiện công việc đó. Bởi vì giữa người có công việc và người thực hiện công việc không có bất cứ thỏa thuận nào, đồng thời pháp luật cũng không có bất cứ quy định nào buộc một người phải thực hiện một công việc cho người khác.

3.2. Nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó

Việc thực hiện hoàn toàn do người thực hiện tự nguyện cho dù pháp luật không quy định và người có công việc không yêu cầu. Trên thực tế, việc một người tự nguyện làm thay công việc cho người khác được dựa trên tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn tạm thời mặc dù giữa họ không có mối quan hệ pháp lý nào.

3.3. Vì lợi ích của người có công việc được thực hiện

Điều kiện này được hiểu là người thực hiện công việc phải nhằm vì lợi ích của người có công việc được thực hiện, hoặc ngăn chặn, hạn chế những thiệt hại cho người có công việc. Tuy nhiên, không hoàn toàn là lợi ích của người thực hiện, không loại trừ khả năng người thực hiện công việc cũng có lợi ích từ việc thực hiện.

3.4. Khi người có công việc được thực hiện không biết hoặc biết mà không phản đối

cho dù không có sự đồng ý hay yêu cầu của người có công việc, nhưng cũng không có sự phản đối, bởi lẽ, nếu bị người có công việc phản đối, thì hành vi thực hiện công việc có thể trở thành hành vi trái pháp luật. Nếu quá trình thực hiện trái với ý muốn của người có công việc và gây thiệt hại, thì sẽ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

4. Nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền

Nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền được quy định tại Điều 575 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

– Người thực hiện công việc không có ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc phù hợp với khả năng, điều kiện của mình.

– Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải thực hiện công việc như công việc của chính mình; nếu biết hoặc đoán biết được ý định của người có công việc thì phải thực hiện công việc phù hợp với ý định đó.

– Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải báo cho người có công việc được thực hiện về quá trình, kết quả thực hiện công việc nếu có yêu cầu, trừ trường hợp người có công việc đã biết hoặc người thực hiện công việc không có ủy quyền không biết nơi cư trú hoặc trụ sở của người đó.

– Trường hợp người có công việc được thực hiện chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân thì người thực hiện công việc không có ủy quyền phải tiếp tục thực hiện công việc cho đến khi người thừa kế hoặc người đại diện của người có công việc được thực hiện đã tiếp nhận.

– Trường hợp có lý do chính đáng mà người thực hiện công việc không có ủy quyền không thể tiếp tục đảm nhận công việc thì phải báo cho người có công việc được thực hiện, người đại diện hoặc người thân thích của người này hoặc có thể nhờ người khác thay mình đảm nhận việc thực hiện công việc.

5. Trách nhiệm thanh toán đối với người thực hiện công việc không có uỷ quyền

Theo quy định tại Điều 576 Bộ luật Dân sự năm 2015, người có công việc được thực hiện có nghĩa vụ thanh toán cho người đã tự mình thực hiện công việc như sau:

  • Khi người thực hiện công việc không có uỷ quyền bàn giao lại công việc, người có công việc được thực hiện phải tiếp nhận công việc đó và hoàn trả các chi phí hợp lý mà người thực hiện đã bỏ ra để tiến hành công việc – kể cả khi kết quả công việc không đạt được đúng như mong muốn ban đầu.

  • Trường hợp người thực hiện công việc không có uỷ quyền đã tiến hành công việc một cách tận tâm, cẩn thận và mang lại lợi ích cho người có công việc, thì người này phải trả thù lao cho người thực hiện công việc, trừ khi người thực hiện từ chối nhận khoản thù lao đó.

6. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong quá trình thực hiện công việc không có uỷ quyền

Căn cứ Điều 577 Bộ luật Dân sự năm 2015, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp thực hiện công việc không có uỷ quyền được xác định như sau:

  • Nếu người thực hiện công việc không có uỷ quyền cố ý gây ra thiệt hại trong quá trình thực hiện công việc, thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người có công việc được thực hiện.

  • Trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi vô ý của người thực hiện công việc, thì căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể khi họ tiếp nhận công việc, Tòa án có thể xem xét giảm nhẹ nghĩa vụ bồi thường.

7. Các trường hợp chấm dứt việc thực hiện công việc không có uỷ quyền

Theo Điều 578 Bộ luật Dân sự năm 2015, việc thực hiện công việc không có uỷ quyền sẽ chấm dứt trong các trường hợp sau:

  • Khi người có công việc được thực hiện yêu cầu chấm dứt;

  • Khi người có công việc được thực hiện, hoặc người thừa kế, người đại diện hợp pháp của họ tiếp nhận lại công việc;

  • Khi người thực hiện công việc không thể tiếp tục công việc do có lý do chính đáng theo khoản 5 Điều 575 Bộ luật Dân sự năm 2015, và đã thông báo cho người có công việc, người đại diện hoặc thân thích của họ, hoặc đã sắp xếp để người khác đảm nhận tiếp công việc;

  • Trường hợp người thực hiện công việc không có uỷ quyền chết (nếu là cá nhân) hoặc chấm dứt tồn tại (nếu là pháp nhân).

Trên đây là bài viết của Luật Dương Gia về “Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?”. Trong trường hợp còn đang thắc mắc hoặc cần sử dụng dịch vụ, hãy liên hệ ngay với Luật Dương Gia để được tư vấn nhanh chóng và chính xác nhất.

CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG

Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hòa Xuân, thành phố Đà Nẵng

Điện thoại: 0931548999; 02367300899

Bài viết liên quan

Gọi ngay
Gọi ngay