Theo sự phát triển của xã hội hiện đại ngày nay, khái niệm đặt ra về bình đẳng giới không chỉ khẳng định giá trị của nhân quyền, dân quyền, mà còn là nền tảng để xây dựng một cộng đồng công bằng, văn minh và tiến bộ. Thế nhưng, sau những bước tiến đáng kể, sự phân biệt, cản trở hay tước bỏ quyền lợi chính đáng của con người dựa trên giới tính vẫn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Chính vì thế, để bảo vệ quyền con người và giữ gìn trật tự xã hội, Bộ luật Hình sự Việt Nam đã đặt ra chế định về “Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới” coi đây là hành vi nguy hiểm, cần phải xử lý nghiêm minh nhằm khẳng định quyết tâm bảo vệ giá trị công bằng và nhân văn.
Căn cứ pháp lý:
– Bộ luật Hình sự 2015 (Sửa đổi bổ sung 2017);
– Luật Bình đẳng giới 2006.
1. Bình đẳng giới là gì?
Nếu trước đây, xã hội còn có tư tưởng trọng nam khinh nữ, nên mọi tuyên ngôn hay các cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng, cũng là đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ, nhưng đến ngày nay, khi xã hội càng phát triển thì không chỉ có quyền của phụ nữ mà còn có cả quyền của nam giới và của những người đồng tính và người chuyển đổi giới cũng cần được bảo vệ và được bình đẳng với mọi người khác. Do đó, từ khái niệm bình đẳng phụ nữ đã dần chuyển thành khái niệm “bình đẳng giới”, ngầm hiểu rằng dù nam giới nữ giới hay các cá thể mang giới tính nào trong cộng đồng người đồng tính và người chuyển giới
Theo đó căn cứ Khoản 3 Điều 5 Luật Bình đẳng giới, khái niệm Bình đẳng giới được nhận định như sau:
” Điều 5. Giải thích từ ngữ
…3. Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó…”
Từ quy định này, có thể hiểu bình đẳng giới vừa là nguyên tắc pháp lý, vừa là thước đo văn minh của xã hội, đồng thời là sự khẳng định rằng mọi cá nhân, dù là nam hay nữ, đều được tôn trọng, đối xử công bằng và có cơ hội tương đương trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bình đẳng giới bao hàm việc tạo ra môi trường để các mặt giới tính đều có điều kiện phát huy năng lực bản thân, tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời cùng nhau hưởng thụ thành quả từ sự phát triển ấy.
2. Quy định pháp luật về việc bình đẳng giới
2.1. Căn cứ pháp lý
Bất cứ ai có hành vi cản trở người khác tham gia vào các hoạt động riêng của họ chỉ vì lý do giới tính thì đều có thể bị truy cứu về Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới theo Điều 165 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự) như sau:
Điều 165. Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới
1. Người nào vì lý do giới mà thực hiện hành vi dưới bất kỳ hình thức nào cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với 02 người trở lên.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
2.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm
Theo quy định tại Điều 165 Bộ Luật hình sự 2015 thì tội xâm phạm quyền bình đẳng giới là hành vi dùng vũ lực hoặc hành vi nghiêm trọng khác cản trở người khác tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hành vi của người phạm tội khi thỏa mãn các yếu tố về nhân thân sau thì sẽ bị xem là phạm tội là đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn tái phạm. Ngoài ra, không cần phải có hậu quả xảy ra hay mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Theo đó, các yếu tố cấu thành tội phạm được phân tích cụ thể như sau:
a. Về chủ thể
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự, người phạm tội này có thể là bất cứ ai từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự (năng lực nhận thức và năng lực làm chủ hành vi).
b. Về chủ quan
Người phạm tội thực hiện hành vi ở mặt khách quan với lỗi cố ý. Tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là xâm phạm quyền bình đẳng giới, cản trở người khác tham gia hoạt động trong các lĩnh vực là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi đó, dù mong muốn hay không thì vẫn để hậu quả xảy ra.
Động cơ phạm tội là vì lý do giới. Đây là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Lí do giới thể hiện sự không tôn trọng quyền bình đẳng giới mà chủ thể thực hiện hành vi cản trở người khác tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bị hại bị cản trở như vậy là vì họ là nam hoặc là nữ tùy thuộc vào định kiến đối với nam hay nữ.
Mục đích là mong muốn người khác giới không tham gia được các hoạt động trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế.
c. Về khách thể
Khách thể của tội “Xâm phạm quyền bình đẳng giới” là quyền bình đẳng về giới của mọi giới tính trong mỗi con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
d. Về khách quan
Mặt khách quan của tội phạm này thể hiện qua các hành vi cản trở người khác tham gia hoạt động trong nhiều lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, y tế dưới bất kỳ hình thức nào vì lý do giới tính.
Hành vi thường được thể hiện dưới dạng hành động, chẳng hạn như:
- Dùng vũ lực như: đánh, trói, nhốt trong buồng, trong hầm để nạn nhân không tham gia được các hoạt động kể trên.
- Dùng lời nói đe dọa sẽ dùng vũ lực.
- Uy hiếp sẽ gây thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần nạn nhân như: dọa sẽ ly hôn nếu cứ tham gia, dọa công bố bí mật đời tư, dọa đuổi việc, cắt tiền thưởng, tiền lương, nhạo báng…
- Các thủ đoạn khác như buộc phụ nữ phải làm việc trong điều kiện môi trường tồi tệ hơn nam giới; không cho nam giới thực hiện các đề tài khoa học, biểu diễn hay đi học tập ở nước ngoài khi cùng điều kiện như nữ giới…
Nếu người phạm tội dùng vũ lực để cản trở nạn nhân tham gia các hoạt động mà gây thương tích hoặc gây chết người thì người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh tương ứng, ngoài tội xâm phạm quyền bình đẳng giới.
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Hậu quả là làm cho người khác không thể tham gia vào các hoạt động ở các lĩnh vực nêu trên. Nếu bị cản trở nhưng nạn nhân vẫn có thể tham gia vào các hoạt động đó thì người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
3. Khung hình phạt của tội xâm phạm quyền bình đẳng giới
4. Nhà nước có các chính sách gì về bình đẳng giới?
Theo quy định tại Điều 7 Luật Bình đẳng giới 2006 thì Nhà nước có các chính sách về bình đẳng giới sau:
– Bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển.
– Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình.
– Áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới.
– Khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới.
– Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.
5. Giới tính khác có được pháp luật Việt Nam bảo vệ hay không?
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chỉ mới quy định một số quyền cơ bản, bước đầu ghi nhận một số quyền cơ bản của cộng đồng LGBT và người chuyển giới. Theo đó:
Bộ luật Dân sự 2015 lần đầu tiên thừa nhận quyền chuyển đổi giới tính, cho phép cá nhân sau khi chuyển giới được thay đổi hộ tịch và có các quyền nhân thân phù hợp với giới tính mới. Năm 2017, Bộ Y tế đã đưa ra dự thảo Luật chuyển đổi giới tính nhằm lấy ý kiến xã hội, hướng tới xây dựng khung pháp lý đồng bộ, minh bạch và nhân văn cho người chuyển giới.
Trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, Nhà nước không thừa nhận hôn nhân cùng giới nhưng cũng không còn cấm như trước, thể hiện bước tiến trong nhận thức xã hội về quyền bình đẳng của mọi giới tính. Theo đó, tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” (khác với Luật năm 2000 là cấm kết hôn giữa những người có cùng giới tính). Sự thay đổi này đã thể hiện bước tiến lớn trong quan niệm, nhận thức của xã hội nói chung về quyền kết hôn, bình đẳng của người LGBT. Nhưng việc “không thừa nhận” ở đây cần được hiểu là Nhà nước không thực hiện việc đăng ký kết hôn cho các cặp đôi cùng giới, do đó, giữa họ không phát sinh quan hệ về quyền và nghĩa vụ nếu chung sống với nhau như vợ chồng.
Ngoài ra, với tư cách là công dân, người đồng tính và chuyển giới vẫn được bảo đảm các quyền cơ bản như quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
6. Luật sư tư vấn Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới
Với đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn vững chắc, Luật Dương Gia tự hào là đơn vị hàng đầu tư vấn và giải quyết các vấn đề hình sự. Chúng tôi cung cấp các dịch vụ sau:
– Tư vấn toàn diện các vấn đề pháp lý về tội phạm này theo Bộ luật Hình sự;
– Hỗ trợ thu thập và chuẩn bị chứng cứ;
– Soạn thảo hồ sơ khởi kiện trong trường hợp khởi kiện;
– Hỗ trợ đàm phán, hòa giải giữa các bên để giải quyết tranh chấp;
– Luật sư đại diện khách hàng làm việc với các cơ quan chức năng;
– Bào chữa cho bị can, bị cáo tại tòa án.
Trên đây là những thông tin liên quan đến Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới. Trường hợp có bất cứ nội dung nào cần làm rõ, vui lòng liên hệ Luật Dương Gia theo số hotline 19006568 hoặc 0931.548.999 để được tư vấn và hỗ trợ.
CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG
Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hòa Xuân, thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: 0931548999; 02367300899