Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm

toi-vi-pham-quy-dinh-ve-ve-sinh-an-toan-thuc-pham

Theo Cục An toàn Thực phẩm, công tác bảo đảm an toàn thực phẩm còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế trong chỉ đạo, kiểm tra, giám sát. Nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh vi phạm quy định về an toàn thực phẩm. Tình trạng quảng cáo thực phẩm sai sự thật, khai khống công dụng, lạm dụng sức ảnh hưởng để nâng cao chất lượng thực tế đã dẫn tới những diễn biến phức tạp, gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng cũng như tác động xấu đến phát triển kinh tế – xã hội của  đất nước. Do đó, nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm, pháp luật hình sự Việt Nam đã quy định cụ thể về Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm.

Căn cứ pháp lý

– Bộ luật Hình sự 2015

– Luật An Toàn thực phẩm 2010

1. Căn cứ pháp lý về tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm

Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm là một trong những vấn đề nghiêm trọng trong ngành công nghiệp thực phẩm hiện nay. Việc không tuân thủ các quy định, quy chuẩn và tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe của người tiêu dùng. Các hành vi vi phạm này có thể xuất hiện ở nhiều giai đoạn của chuỗi cung ứng thực phẩm, từ sản xuất, chế biến, vận chuyển cho đến lưu thông và tiêu thụ. Do đó, hành vi phạm tội này đã được Bộ luật Hình sự 2015 đặt ra những khung pháp lý cụ thể tại Điều 317.

Nhận thấy, so với quy định  tại Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội danh này,  Điều 317 của BLHS năm 2015 đã tội phạm hóa 5 nhóm hành vi phạm tội mới về an toàn thực phẩm bao gồm:

– Sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết rõ là cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng trong sản xuất thực phẩm;

– Sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy để chế biến thực phẩm hoặc cung cấp, bán thực phẩm chế biến từ động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy;

– Sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết rõ là chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trong sản xuất thực phẩm;

– Nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là có sử dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng;

– Nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là có sử dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam.

Những sửa đổi, bổ sung này góp phần bảo vệ tốt hơn quyền được sống trong một môi trường an lành của người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống các hành vi của một số người vì lợi ích cá nhân mà bất chấp đến an nguy về tính mạng, sức khỏe của người khác đã thực hiện các hành vi sản xuất, kinh doanh thực phẩm không đảm bảo an. Điểm mới này, một mặt thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cũng như hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội vi phạm các quy định về vệ sinh ATTP nói riêng.

2. Các dấu hiệu của tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm

Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm có các dấu hiệu cơ bản sau đây:

2.1. Chủ thể

Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần người có hành vi vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này.

2.2. Khách thể

Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm tuy trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người nhưng khách thể của tội phạm này không phải xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người, mà nhằm vào trật tự quản lý của Nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm.

Đối tượng tác động của tội phạm này là thực phẩm mà người phạm tội thông qua đó xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm.

2.3. Khách quan

a) Hành vi

Người phạm tội này chỉ thực hiện một hành vi khách quan duy nhất là hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định của Nhà nước. Hành vi vi phạm được biểu hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau như:

– Chế biến thực phẩm không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn;

– Cung cấp hoặc bán thực phẩm không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn.

b) Hậu quả

Hậu quả của hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm là thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe của người tiêu dung.

Nếu hành vi vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm chưa gây thiệt hại đến tính mạng hoặc chưa gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe của người tiêu dùng thì người có hành vi chưa bị coi là người phạm tội.

c) Các dấu hiệu khách quan khác

Ngoài hành vi, hậu quả do hành vi vi phạm gây ra, nhà làm luật còn quy định dấu hiệu khách quan là dấu hiệu bắt buộc, đó là tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Tiêu chuẩn này do Chính phủ hoặc do Bộ Y tế ban hành, vì vậy khi xác định hành vi đã vi phạm các quy định của Nhà nước về vệ sịnh an toàn thực phẩm hay chưa cần phải căn cứ vào tiêu chuẩn vệ sinh an toàn đối với từng loại thực phẩm do Nhà nước quy định.

2.4. Chủ quan

Mặc dù điều luật quy định người thực hiện hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm phải biết rõ là thực phẩm do mình chế biến, cung cấp hoặc bán không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn, nhưng không phải vì thế mà cho rằng tội phạm này là do cố ý, vì người phạm tội tuy biết rõ thực phẩm do mình chế biến, cung cấp hoặc bán không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn có thể gây cho người tiêu dùng chết hoặc gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

3. Quy định về khung hình phạt

Tại Điều 317 của BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017 so với Bộ luật Hình sự 1999, ngoài hình phạt bổ sung được nâng mức hình phạt tiền “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm” còn quy định hình phạt chính trong một khung và hình phạt trong các khung có sự gối nhau hoặc nối tiếp nhau, với khoảng cách phù hợp giữa mức tối thiểu và mức tối đa của từng khung hình phạt. Cụ thể:

– Khung 1:  Người nào thực hiện một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;

– Khung 2: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp theo quy định tại Khoản 2 thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm;

– Khung 3: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp tại Khoản 3, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm;

– Khung 4: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Khoản 4 thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

Cách thiết kế khung hình phạt cũng như khoảng cách khung hình phạt… tạo điều kiện thuận lợi trong áp dụng các quy định của BLHS trên thực tế đã tăng cường hiệu lực và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm; đồng thời giúp các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng hình phạt được dễ dàng, thống nhất, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và tránh tùy tiện, tiêu cực trong quyết định hình phạt.

Với toàn bộ những phân tích nêu trên, Luật Dương Gia hy vọng rằng bạn đọc đã có được cái nhìn toàn diện và đầy đủ hơn về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm. Trường hợp cần làm rõ những nội dung liên quan hoặc cần tư vấn pháp lý, vui lòng liên hệ:

CÔNG TY LUẬT TNHHH DƯƠNG GIA - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG

Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

Điện thoại: 0931548999; 02367300899

Gọi ngay
Gọi ngay