Đã bồi thường đầy đủ cho bị hại thì có bị truy tố không?

da-boi-thuong-day-du-cho-bi-hai-thi-co-bi-truy-to-khong

Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, nhiều người cho rằng chỉ cần bồi thường đầy đủ cho bị hại thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, theo pháp luật hiện nay, việc bồi thường có phải là yếu tố quyết định việc có bị truy tố hay không? Bài viết dưới đây sẽ phân tích các quy định hiện hành để làm rõ nội dung trên và các vấn đề khác có liên quan.

Căn cứ pháp lý:

– Bộ luật Hình sự;

– Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bị hại trong vụ án hình sự: 

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, các quyền của con người đối với tính mạng sức khỏe và danh dự nhân phẩm, uy tín cũng như tài sản được hiến pháp ghi nhận và được pháp luật bảo vệ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự thường diễn ra thông qua những “thiệt hại ngoài hợp đồng”. Khi đó Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về: Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc xin lỗi công khai … là đích hướng đến các cơ quan tiến hành tố tụng xử lý các vấn đề bồi thường diễn ra trong vụ án hình sự thông qua trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định cụ thể tại Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tức là trách nhiệm được xác định theo quy định của pháp luật. Khi xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ án hình sự cũng phải dựa trên nền tảng các vấn đề pháp lý và các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được luật hóa trong các quy định từ Điều 589 đến Điều 593 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Từ những phân tích trên thì có thể đưa ra khái niệm như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự là trách nhiệm dân sự được thực hiện cùng với việc giải quyết vụ án hình sự, mà trong đó bị can, bị cáo, pháp nhân thương mại phải thực hiện nhằm khắc phục những hậu quả do hành vi của mình gây ra đối với những người có liên quan.

2. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS): “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.

Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau:

– Có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác.

– Có thiệt hại xảy ra là thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần

– Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi xâm phạm. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi xâm phạm và ngược lại hành vi xâm phạm là nguyên nhân gây ra thiệt hại.

3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự: 

Khi giải quyết các vụ án liên quan đến tính mạng và sức khỏe, danh dự và nhân phẩm cũng như uy tín và tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại, thì các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải tuân thủ nguyên tắc về bồi thường thiệt hại. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, thiệt hại thực tế phải được bồi thường một cách toàn bộ và kịp thời. Bên gây thiệt hại và bên thiệt hại có thể thỏa thuận về mức bồi thường và hình thức bồi thường. Phương thức bồi thường này thường là một lần hoặc nhiều lần. Cần phải tôn trọng thỏa thuận của các bên về mức bồi thường và hình thức bồi thường, nếu thỏa thuận đó không trái pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Trường hợp bên gây thiệt hại và bên thiệt hại không thỏa thuận được thì khi giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần phải lưu ý rằng: thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời.

Thứ hai, trong trường hợp gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình do lỗi vô ý thì người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ các điều kiện sau:

– Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại;

– Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế của mình. Đây là điều kiện luôn đi cùng với điều kiện thứ nhất. Người đâu thiệt hại có thể được xem xét giảm mức bồi thường thiệt hại nếu như mức độ thiệt hại vượt quá khả năng kinh tế của họ.

Thứ ba, mức bồi thường thiệt hại có thể bị thay đổi khi không phù hợp với thực tế và có yêu cầu của bên gây thiệt hại, bên bị thiệt hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại. Với nguyên tắc này thì các nhà làm luật đã dự đoán được tác động của cơ chế thị trường ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt hằng ngày của con người nhằm bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các bên.

4. Đã bồi thường đầy đủ cho bị hại thì có bị truy tố không?

Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, có tính chất nguy hiểm cho xã hội và buộc phải xử lý hình sự.

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, chỉ khởi tố vụ án hình sự về tội phạm khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết trong 10 trường hợp sau:

– Khoản 1 Tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác với mức phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;

– Khoản 1 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với mức phạt là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tiền từ 10 – 50 triệu đồng;

– Khoản 1 Tội cưỡng dâm với mức phạt tù từ 01 – 05 năm…

Lúc này, nếu người phạm tội bồi thường thiệt hại và được bị hại rút yêu cầu khởi tố thì vụ án sẽ được đình chỉ. Trừ trường hợp có căn cứ xác định người bị hại bị ép buộc, cưỡng bức rút yêu cầu.

Đồng thời, theo quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự, người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại và được người bị hại tự nguyện hòa giải, đề nghị miễn trách nhiệm hình sự thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

Như vậy, không phải mọi trường hợp khi người phạm tội đã bồi thường thiệt hại thì đều được miễn trách nhiệm hình sự mà chỉ những trường hợp đã phân tích ở trên mới có thể được.

Trên đây là các nội dung có liên quan đến việc đã bồi thường cho bị hại thì có bị truy tố không? Trong trường hợp còn đang thắc mắc hoặc tư vấn cụ thể về các vấn đề hình sự, hãy liên hệ ngay với Luật Dương Gia để được hỗ trợ nhanh chóng và chính xác nhất.

CÔNG TY LUẬT TNHH DƯƠNG GIA - CHI NHÁNH ĐÀ NẴNG

Địa chỉ: 141 Diệp Minh Châu, phường Hòa Xuân, thành phố Đà Nẵng

Điện thoại: 0931548999; 02367300899

Gọi ngay
Gọi ngay